

Hôm nay, ngày 18 tháng 5 năm 2025, chúng ta tưởng niệm 35 năm ngày Đức Hồng y Giuse-Maria Trịnh Văn Căn được Chúa gọi về.
Ngài là một trong những vị lãnh đạo tiêu biểu nhất của Giáo hội Công giáo Việt Nam thế kỷ XX — một người mục tử nhân hậu, can đảm và luôn trung thành với Hội Thánh, dù trong những năm tháng đầy gian khó của đất nước. Trong tâm tình hiệp thông và biết ơn, chúng ta cùng nhìn lại hành trình đức tin và phục vụ của ngài qua những mốc thời gian tiêu biểu dưới đây.

Vị Giám mục chịu “tử đạo” vì các Thánh tử đạo
Vào ngày 19 tháng 3 năm 1921, tại làng Bút Đông, xã Trát Bút – nay thuộc xã Châu Giang, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam – một hài nhi chào đời trong một gia đình Công giáo đạo hạnh, mang tên Giuse Trịnh Văn Căn.
Là con trai duy nhất của cụ Phêrô Trịnh Văn Điền và bà Anna Nguyễn Thị Thảo, cậu bé Giuse được dưỡng nuôi trong bầu khí đạo đức truyền thống, đậm đà đức tin và thấm đẫm tinh thần phục vụ. Cuộc sống tuổi thơ của ngài sớm in dấu gian truân khi thân phụ vì mưu sinh đã phải sang Lào, rồi sang Ubon – Thái Lan – để làm nghề y tá, mãi đến năm 1932 mới trở về quê hương.
Gia đình sau đó có thêm một người con gái, cô Miều. Thập niên 1950, trong khói lửa chiến tranh, làng Bút Đông bị ném bom, toàn bộ cơ ngơi bị tàn phá. Cụ ông qua đời, cụ bà rời làng lên Hà Nội sống với con gái, rồi vào miền Nam sau biến cố 1954.
Trải qua nhiều năm xa cách, mãi đến ngày 19 tháng 10 năm 1974 tại Roma, bà mới được gặp lại người con thân yêu trong một cuộc hội ngộ đầy xúc động, nhờ sự sắp xếp của Đức ông Hasseler – Giám đốc Caritas Quốc tế.
Con đường tu trì của cậu bé Giuse khởi đi từ rất sớm. Ngày 29 tháng 6 năm 1929, ngài theo chân Thầy Phêrô Nguyễn Đức Tín về Nam Định để bắt đầu học hành dưới sự hướng dẫn của linh mục xứ Nam Định, cha Pédebidau – người Việt gọi là cha Hóa.
Một năm sau, Thầy Tín thụ phong linh mục và nhận nhiệm sở tại xứ Kẻ Vôi, nơi cha Trịnh Văn Căn tiếp tục học hành và đỗ bằng Sơ học Yếu lược Pháp-Việt vào năm 1931. Sau ba năm học tại trường Tập Hà Nội, ngài được nhận vào Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên niên khóa 1934–1935.

Thời ấy, linh mục Binet (cố Ninh) làm giám đốc. Năm năm sau, ngài được sai đi giúp xứ Yên Mỹ bên bờ sông Hồng, trước khi được gọi về Đại Chủng viện Liễu Giai vào năm 1941 – nơi được điều hành bởi các linh mục Xuân Bích dưới sự hướng dẫn của linh mục Palliard.
Lịch sử dân tộc và Giáo hội giao thoa trong một giai đoạn đầy biến động. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Đại Chủng viện phải đóng cửa. Thầy Căn rút về quê Bút Đông, rồi lên Đại Ơn ở với cha Phêrô Tín một thời gian trước khi tìm đường trở lại Hà Nội đầu năm 1947.
Bấy giờ, Đức cha Francois Chaize – Giám mục Hà Nội – đã gửi thầy và một số chủng sinh sang học thần học tại Dòng Chúa Cứu Thế ấp Thái Hà, dưới quyền linh mục Gagnon. Năm sau, Đại Chủng viện Nhà Chung mở lại, thầy trở về tiếp tục hành trình tu học.
Ngày 3 tháng 12 năm 1949, tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, thầy Giuse Trịnh Văn Căn được Đức cha Chaize truyền chức linh mục. Đây là một lễ phong chức đặc cách trong hoàn cảnh chiến tranh, cùng với ba tân linh mục khác: Hoàng Quốc Chương, Nguyễn Tùng Cương và Đỗ Tông.
Tân linh mục Trịnh Văn Căn được sai về làm phó xứ Hàm Long, nơi cha Giuse Trịnh Như Khuê làm chánh xứ. Khi cha Khuê được Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Hà Nội vào ngày 15 tháng 8 năm 1950, cha Căn được mời về Tòa Giám mục làm thư ký, rồi sau đó kiêm nhiệm phó xứ Nhà thờ Chính tòa và phó Giám đốc trường trung học Dũng Lạc.
Trong thời gian mục vụ tại Hà Nội, cha Trịnh Văn Căn để lại nhiều dấu ấn: từ việc xây dựng nhà nguyện trong khuôn viên bệnh viện Phủ Doãn – khánh thành ngày 1 tháng 5 năm 1958 – đến công trình trùng tu Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, ngôi thánh đường lịch sử được xây từ năm 1884.

Năm 1959, ngài được bổ nhiệm làm Cha Chính giáo phận, vẫn tiếp tục làm chánh xứ Nhà thờ Chính tòa và kiêm nhiệm xứ Kẻ Sét.
Ngày lễ Hiện Xuống năm 1963 – 2 tháng 6 – một biến cố quan trọng đã xảy ra tại Nhà thờ Lớn Hà Nội: linh mục Giuse Trịnh Văn Căn được bí mật tấn phong Giám mục phó Hà Nội do Đức Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê chủ sự, do lo ngại thị lực của Đức Tổng Giám mục đột ngột suy giảm nghiêm trọng.
Đây là một việc làm khẩn cấp và bất ngờ, gây ngỡ ngàng trong hàng giáo sĩ và giáo dân, được xác nhận chính thức ngày hôm sau qua thông cáo của Tòa Tổng Giám mục.
Với tư cách Giám mục phó, ngài âm thầm phục vụ, gánh vác công việc mục vụ nặng nề giữa lòng Giáo hội miền Bắc đang bị chia cắt và giới hạn đủ điều.
Năm 1974, ngài đại diện Đức Tổng sang Roma tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới và đọc tham luận nêu bật thực trạng Giáo hội miền Bắc. Chính trong dịp này, sau 20 năm, ngài hội ngộ thân mẫu tại Roma – một cuộc đoàn viên tràn đầy nước mắt trong Chúa.
Sau khi Đức Giáo hoàng Phaolô VI tạ thế, Đức Hồng y Trịnh Như Khuê tham dự hai mật nghị Hồng y để bầu Đức Gioan Phaolô I và sau đó là Đức Gioan Phaolô II.
Trở về Hà Nội cuối năm 1978, Đức Hồng y Trịnh Như Khuê đột ngột qua đời vào ngày 27 tháng 11. Theo quy định kế vị, Giám mục phó Giuse Trịnh Văn Căn kế nhiệm ngài, trở thành Tổng Giám mục Hà Nội.
Chỉ sau sáu tháng giữ chức Tổng Giám mục, ngày 2 tháng 5 năm 1979, ngài được Đức Gioan Phaolô II vinh thăng Hồng y, trở thành vị Hồng y thứ hai của Giáo hội Việt Nam.
Tại Roma, ngày 30 tháng 6, ngài được trao mũ đỏ tại thánh đường Phaolô VI, và ngày 2 tháng 7, lãnh nhẫn Hồng y. Ngày 8 tháng 7, ngài chính thức nhận nhà thờ hiệu tòa Maria in Via – Roma.
Trở về nước, Đức Hồng y Trịnh Văn Căn ngay lập tức khởi xướng sáng kiến thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam – một bước ngoặt lớn trong lịch sử Giáo hội Việt Nam.
Với lòng kiên nhẫn và sự khéo léo trong tiếp xúc với chính quyền, ngài xin phép tổ chức hội nghị các Giám mục tại Hà Nội. Cuối tháng 4 năm 1980, lần đầu tiên kể từ năm 1954, có 33 Giám mục từ cả ba miền Bắc, Trung, Nam tề tựu trong tuần cấm phòng, chính thức khai sinh Hội đồng Giám mục Việt Nam. Đức Hồng y được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ.
Bằng sức sống nội tâm sâu sắc, lòng yêu mến Giáo hội và sự khôn ngoan của một chủ chăn thời chiến, Đức Hồng y đã điều hành Giáo hội miền Bắc trong bối cảnh đầy cam go, đồng thời mở rộng tầm nhìn mục vụ ra cả nước.
Ngài truyền chức cho 9 Giám mục miền Bắc, và khi Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền qua đời, ngài kiêm Giám quản Tông tòa Tổng Giáo phận Huế. Đầu năm 1990, ngài tiếp tục kiêm nhiệm các Giáo phận Hưng Hóa, Thái Bình và Thanh Hóa.
Đức Hồng y Trịnh Văn Căn còn khởi xướng và kiên trì thúc đẩy tiến trình phong Thánh cho 117 vị Tử đạo Việt Nam.
Dù gặp nhiều áp lực và khó khăn, nhưng với sự kiên trì và tinh thần phân định thần học sâu sắc, ngài đã đưa vấn đề vượt khỏi những hệ lụy chính trị và giới thiệu với Tòa Thánh như một hành trình đức tin thuần túy.
Ngày 19 tháng 6 năm 1988, tại Roma, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã long trọng tuyên phong hiển Thánh cho các vị tử đạo Việt Nam, mở ra một trang sử vàng cho Giáo hội quê hương.
Một đóng góp quan trọng khác của Đức Hồng y là công trình dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Năm 1972, ngài bắt đầu dịch Tân Ước và đến năm 1975 đã xuất bản được 5.000 cuốn.
Năm 1978, ngài khởi sự dịch Cựu Ước và hoàn tất vào cuối năm 1988. Các bản dịch này sử dụng ngôn ngữ đơn sơ, bình dị, dễ hiểu, trở thành một trong những bản dịch Kinh Thánh sớm nhất và phổ biến nhất tại Việt Nam, giúp Lời Chúa đến gần hơn với mọi tầng lớp giáo dân.
Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 18 tháng 5 năm 1990, Đức Hồng y Giuse-Maria Trịnh Văn Căn trở về nhà Cha trên trời sau một cơn nhồi máu cơ tim đột ngột, hưởng thọ 69 tuổi.

Tang lễ được cử hành trọng thể vào ngày 23 tháng 5 do Đức Hồng y Roger Etchegaray – đặc sứ của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II – chủ sự, quy tụ 20 Giám mục Việt Nam, 120 linh mục và khoảng 80.000 giáo dân từ khắp nơi về hiệp thông tiễn đưa vị chủ chăn của hiệp nhất và đức tin.
Tiểu sử Đức Hồng y Giuse-Maria Trịnh Văn Căn – Các mốc thời gian chính
Năm 1921 (ngày 19 tháng 3): Sinh tại Hà Nội, trong một gia đình Công giáo đạo hạnh thuộc xứ Kẻ Sét.
Năm 1932: Gia nhập Tiểu Chủng viện Thánh Gioan Hà Nội.
Năm 1938: Vào Đại Chủng viện Xứ Đàng Ngoài (nay là Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội).
Năm 1949: Được thụ phong linh mục tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội.
Giai đoạn 1949–1954: Giảng dạy tại Tiểu Chủng viện Hà Nội.
Năm 1954: Sau Hiệp định Genève, quyết định ở lại miền Bắc phục vụ Giáo hội; được giao làm cha xứ và cố vấn cho Tổng Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê.
Năm 1959: Được bổ nhiệm làm Tổng Đại diện Tổng Giáo phận Hà Nội.
Năm 1976 (ngày 5 tháng 7): Chính thức được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Hà Nội, kế nhiệm Đức Hồng y Trịnh Như Khuê.
Năm 1979 (ngày 19 tháng 5): Được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vinh thăng Hồng y tại Vatican, trở thành vị Hồng y thứ hai của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Năm 1980: Chủ trì Hội nghị toàn thể đầu tiên của hàng giám mục Việt Nam, chính thức thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Giai đoạn 1980–1984: Giữ chức Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ đầu tiên.
Năm 1983: Đại diện Hội đồng Giám mục Việt Nam trình hồ sơ phong thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam lên Tòa Thánh.
Năm 1984: Lâm bệnh nặng sau chuyến đi mục vụ tại Giáo phận Phát Diệm.
Năm 1984 (ngày 18 tháng 5): Qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 63 tuổi.
Năm 1984 (ngày 23 tháng 5): Được an táng trọng thể tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội.
Lạy Chúa,
Hôm nay, ngày 18 tháng 5 năm 2025, chúng con tưởng niệm 35 năm ngày Đức Hồng y Giuse-Maria Trịnh Văn Căn được Chúa gọi về trong ân sủng của Ngài. Chúng con tạ ơn Chúa vì cuộc đời và sứ vụ của ngài, một người mục tử trung thành, đã tận hiến phục vụ Giáo hội và dân Chúa với lòng yêu mến và khiêm nhường.
Xin Chúa ban thưởng hạnh phúc thiên đàng cho Đức Hồng y, và nhờ lời chuyển cầu của ngài, xin củng cố đức tin, lòng cậy trông và tình mến trong tâm hồn chúng con, để chúng con tiếp tục sống và loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
CGVST.COM biên soạn
Tin cùng chuyên mục
-
Dự kiến Đức Giáo Hoàng Leo XIV Thăm Việt Nam, Tiếp Nối Ước Nguyện Đức Phanxicô
Cáo phó Cha Phêrô Nguyễn Đức Long, GP Bùi Chu
Giáo Hội Việt Nam có Hồng Y nào tham dự Mật nghị Hồng Y sắp tới không?
Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn kể gì sau 2 lần tham dự Mật Nghị? Liệu ĐHY Việt Nam có được làm Đức Giáo Hoàng