

Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934 tại Hòa Thành, tỉnh Cà Mau. Từ năm 1944 đến 1946, ngài theo học tại Tiểu Chủng viện Cù Lao Giêng, sau đó chuyển sang Tiểu Chủng viện Phnom Penh (Campuchia) và học tập tại đây từ năm 1946 đến 1954. Trong giai đoạn 1954–1956, ngài theo học ngành triết học tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn. Sau đó, ngài về Bạc Liêu dạy học cho đến năm 1961, rồi trở lại Đại Chủng viện để tiếp tục học thần học trong vòng bốn năm.

Ngày 25 tháng 5 năm 1965, ngài được Đức cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, Giám mục Giáo phận Cần Thơ, phong chức linh mục tại Nhà thờ Chánh tòa Cần Thơ.
Sau đó, ngài giảng dạy tại Tiểu Chủng viện Á Thánh Quí. Từ năm 1968 đến 1971, ngài du học tại Đại học Loyola (Hoa Kỳ), chuyên ngành quản trị và giáo dục, rồi trở về nước và tiếp tục công việc giảng dạy tại Tiểu Chủng viện Á Thánh Quí.
Năm 1974, ngài được bổ nhiệm làm giám đốc của chủng viện này. Đến năm 1988, ngài trở thành Giám đốc tiên khởi của Đại Chủng viện Thánh Quí.
Ngày 22 tháng 3 năm 1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Giám mục Phó Giáo phận Mỹ Tho.
Ngày 11 tháng 8 cùng năm, ngài được thụ phong Giám mục tại Đại Chủng viện Thánh Quí.
Tháng 3 năm 1998, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh và chính thức nhậm chức vào ngày 2 tháng 4.
Ngày 21 tháng 10 năm 2003, Đức Thánh Cha phong ngài làm Hồng y tại thánh đường Thánh Justino ở Roma, đồng thời trao mũ và nhẫn hồng y.
Sau đó, ngài trở thành thành viên của Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, cũng như Thánh bộ Truyền giáo. Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn chính thức nghỉ hưu từ ngày 22 tháng 3 năm 2014.

Nhân dịp kỷ niệm Ngân khánh Giám mục của Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn ngày 11/8/2018, Tòa Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Sài Gòn đã biên soạn một tập sách nhằm ghi lại hành trình sống đức tin và sứ vụ mục tử của ngài — từ vùng quê Cà Mau đến Cần Thơ, từ Mỹ Tho đến Sài Gòn.
Trên hành trình đó, ngài đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm: 28 năm phục vụ tại Giáo phận Cần Thơ với vai trò là nhà đào tạo linh mục tương lai cho ba giáo phận Cần Thơ, Long Xuyên và Vĩnh Long; tiếp đến là 5 năm đảm nhận sứ vụ Giám mục Phó Giáo phận Mỹ Tho; và 16 năm làm vị chủ chăn tận tụy của Tổng Giáo phận Sài Gòn.
Tập sách, với hơn 500 trang, không chỉ thuật lại những cột mốc đáng nhớ trong cuộc đời và sứ vụ của Đức Hồng y, mà còn tập hợp nhiều bài viết của các giám mục, linh mục viết về ngài.
Đặc biệt, sách cũng ghi lại những chia sẻ và tâm tình của Đức Hồng y trong hai lần tham dự mật nghị Hồng y bầu Giáo hoàng vào các năm 2005 và 2013.
Cuộc phỏng vấn diễn ra tại văn phòng Đức Hồng Y lúc 10 giờ sáng ngày 4.8.2011 – làm chứng về đời sống Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp trên ba phương diện: Linh mục thánh thiện – Linh mục thương yêu, lo lắng cho đàn chiên và là một linh mục dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên.
Trong buổi gặp gỡ, Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã chia sẻ những kỷ niệm và cảm nhận cá nhân sâu sắc về Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, một chứng nhân đức tin đặc biệt trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Những lời chia sẻ không hoàn toàn là nguyên văn, nhưng trung thành với ý nghĩa và tinh thần lời chứng của ngài:
“Tôi sinh năm 1934 tại Cái Rắn. Cha tôi, được người dân quen gọi là ông Sáu Hào, còn mẹ tôi tên là Quới. Cha tôi nổi tiếng trong vùng vì đã đào con kênh dài 3.000 thước – dân gian gọi là Kênh Ba Ngàn hay Kênh Sáu Hào.”
“Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp khi ấy là Cha sở Tắc Sậy, không trực tiếp phụ trách giáo xứ tôi, nhưng thường xuyên lui tới thăm Cha Công – Cha sở họ đạo tôi – và Cha Tứ ở Hòa Thành. Mỗi lần có dịp, các ngài đều đến thăm gia đình tôi.”
Ngài kể lại, khoảng năm 1939, khi mới sáu tuổi, trong một lần đến thăm, Cha Diệp đã dặn mẹ ngài: “Bà Sáu cho thằng Mẫn học kinh tiếng La Tinh và tập giúp lễ.” Vâng theo lời khuyên ấy, mẹ của ngài đã đưa cậu bé Mẫn đến nhà thờ. Cậu bé đã bắt đầu hành trình gần bàn thờ từ đó – một bước đầu của ơn gọi linh mục.
Khoảng năm 1944, trong một lần khác ghé thăm, Cha Diệp tiếp tục khuyến khích: “Ông bà Sáu lo cho thằng Mẫn đi tu ở Cù Lao Giêng để trở thành linh mục.” Chính nhờ lời khuyên này, cậu bé Mẫn đã gia nhập Tiểu Chủng viện Cù Lao Giêng, khởi đầu cho con đường mục tử sau này.
Đức Hồng Y kể rằng, dù không là Cha sở của giáo xứ mình, Cha Diệp vẫn đặc biệt quan tâm đến thiếu nhi, luôn tìm cách đưa các em đến gần bàn thờ và gieo mầm ơn gọi linh mục.
Không những thế, Cha Diệp còn hết lòng phục vụ giáo dân: lập nhiều họ lẻ, xây dựng nhà thờ, khai khẩn ruộng đất, giao cho ông nội ngài – lúc đó là Biện Việc – chăm lo ruộng lúa nhà chung.
Lòng thương dân của Cha Diệp lan rộng đến cả người lương cũng như giáo hữu, ai cũng yêu mến và kính trọng ngài.
Đức Hồng Y kể lại lần cuối cùng được gặp Cha Diệp: vào mùa hè năm 1945, khi đang theo học tại Tiểu Chủng viện Cù Lao Giêng. Dịp ấy, ngài được theo các Cha sở trong hạt chèo xuồng từ Hòa Thành đến Tắc Sậy thăm Cha Diệp.
Đó là thời điểm chiến tranh, loạn lạc lan rộng. Dù được khuyên rời Tắc Sậy để tránh hiểm nguy, Cha Diệp đã kiên quyết ở lại để sống và chết cùng đàn chiên. Sau đó không lâu, ngài đã bị sát hại.
Ba điều Đức Hồng Y ghi nhớ về Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp:
– Một linh mục thánh thiện, luôn gắn bó mật thiết với Chúa và có đời sống đạo đức sâu sắc.
– Một linh mục yêu thương đoàn chiên, không ngừng khuyến khích ơn gọi, lo lắng cho tương lai Giáo Hội.
– Một vị mục tử dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, can đảm ở lại trong thời điểm hiểm nguy để đồng hành với giáo dân đến cùng.
Cuối lời chứng, Đức Hồng Y xúc động chia sẻ:
“Tôi cảm ơn quý Cha đã và đang xúc tiến án tuyên thánh cho Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Thực tế, người dân – kể cả những người không cùng niềm tin Công giáo – đã từ lâu xem ngài là vị thánh. Khi tôi còn là Giám mục phó ở Mỹ Tho, chính một bà Bí thư Phường đã tổ chức xe đưa bà con lương giáo đi hành hương kính viếng Cha Diệp.”
CGVST.COM Tổng hợp