Thiên đàng có thật – ông bố sửng sờ khi nghe cậu bé kể chi tiết về Thiên đàng

Thiên đàng
CGvST | 07/03/2025

Kính thưa quý vị và anh chị em, hôm nay xin chia sẻ đến quý vị và anh chị em một vài chương trong cuốn sách “Thiên Đàng Có Thật” của cậu bé Colton. Quý vị và anh chị em có thể tìm đọc cuốn sách này trên mạng để hiểu rõ hơn. Sau đây là câu chuyện trong cuốn sách “Thiên Đàng Có Thật”:

Thiên đàng có thật
Thiên đàng có thật

Thiên đàng có thật

Một tuần sau khi mổ, ruột Colton vẫn ói và chúng tôi vẫn tiếp tục rút chất độc ra khỏi người thằng bé hai lần mỗi ngày qua hệ thống ống nhựa và bơm tay. Chậm chậm, thằng bé có chuyển biến tốt, nó ngưng ói, sắc mặt trở lại bình thường và bắt đầu ăn được một ít. Chúng tôi nhận ra rằng thằng bé đang hồi phục khi nó ngồi dậy được, trò chuyện cùng chúng tôi, chơi trò chơi điện tử mà các y tá đã gắn vào giường thằng bé, và thậm chí còn vui thích với chú sư tử nhồi bông mới tin cho nó vài hôm trước. Cuối cùng, bảy ngày sau khi nhập viện, các bác sĩ thông báo chúng tôi có thể cho Colton về nhà. Giống như những người lính khải hoàn trở về sau cuộc chiến dai dẳng, Sonia và tôi đều kiệt sức nhưng cũng vui mừng khôn xiết. Vào ngày 13 tháng 3, chúng tôi gom tất cả những vật dụng trong đợt nhập viện này vào các túi vải len và bao nhựa, rồi tiến thẳng ra thang máy. Tôi đẩy Colton trên xe đẩy, còn Sonia ôm một chùm bong bóng chào mừng. Khi cửa thang máy bắt đầu khép lại, bác sĩ Oholeran xuất hiện và la to bảo chúng tôi dừng lại: “Anh chị chưa thể đi được! Anh chị chưa đi được!”. Giọng ông vang trong hành lang khi ông vẫy một sắp giấy về phía chúng tôi: “Vẫn còn một số vấn đề. Kết quả xét nghiệm máu sau cùng cho thấy lượng bạch cầu của Colton tăng mạnh”. Bác sĩ Oholeran cho biết đó có thể là một chỗ rỉ khác. Ông nói chúng tôi có thể sẽ phải mổ lần nữa. Tôi nghĩ Sonia muốn ngất ngay lúc này. Cả hai chúng tôi khi đó hệt như những xác chết di động và đã đến gần giới hạn chịu đựng. Colton oà khóc. Bản chụp CT cho thấy các ổ viêm nhiễm mới trong bụng Colton.

Chiều hôm đó, bác sĩ Oh và đội ngũ phẫu thuật của ông đã mổ cho thằng bé lần thứ hai và rửa sạch cho nó lần nữa. Lần này Sonia và tôi không hoảng sợ. Bóng đen chết chóc đã lâu không còn trên gương mặt Colton, nhưng giờ đây chúng tôi có thêm nhiều lo lắng. Colton chưa ăn được gì nhiều trong khoảng 10 ngày qua. Đầu tiên thằng bé chỉ nặng khoảng 18 kg, và lúc này nó như tan chảy ra, đến nỗi cùi trỏ và đầu gối thằng bé có vẻ như to bất thường, còn mặt thì hốc hác hệt như một đứa trẻ ốm đói. Sau cuộc phẫu thuật, tôi bày tỏ nỗi lo ngại với bác sĩ: “Cháu bé chưa ăn hết được một hộp sữa chua hay nước súp trong gần hai tuần”, tôi nói, “Một đứa trẻ có thể chịu đựng được bao lâu?”. Bác sĩ Oholeran đưa Colton vào khu chăm sóc đặc biệt và yêu cầu thêm dinh dưỡng cho thằng bé truyền qua ống dẫn.

Nhưng tôi nghĩ khu chăm sóc đặc biệt là quá tốt cho cả chúng tôi lẫn Colton. Chúng tôi đã không ngủ trong ngần ấy thời gian, Colton không ăn được và chúng tôi rũ rượi hết sức. Đưa Colton vào khu chăm sóc đặc biệt là cách duy nhất bác sĩ có thể giúp chúng tôi nghỉ ngơi một chút. “Colton sẽ ổn trong tối nay”, ông bảo chúng tôi, “Bé sẽ có một y tá riêng túc trực suốt và nếu có chuyện gì sẽ có người ở kế bên chăm sóc cho bé”. Tôi phải thú nhận những lời này hệt như ốc đảo giữa sa mạc. Chúng tôi sợ phải để Colton lại một mình, nhưng chúng tôi nghĩ bác sĩ Oholeran đã làm đúng. Đó là đêm đầu tiên khi rời nhà của hai vợ chồng Harris ở Bradley, Sonia và tôi ở cùng nhau. Chúng tôi nói chuyện, chúng tôi khóc, chúng tôi động viên lẫn nhau. Nhưng hầu hết thời gian chúng tôi ngủ say như những người sống sót sau vụ đắm tàu trong đêm, tàu tìm được vào bờ ấm áp và khô ráo.

Sau một đêm trong khu chăm sóc đặc biệt, Colton được chuyển đến một phòng bệnh khác và giai đoạn chờ đợi lại bắt đầu. Bao giờ Colton mới được ra khỏi đây? Bao giờ chúng tôi mới được về nhà và trở lại bình thường như trước? Lại còn giờ đây ruột thằng bé dường như đã ngừng hoạt động, nó không tiểu được và từng giờ qua nó càng khổ sở. “Ba ơi, con đau bụng”, Colton nằm trên giường rên rỉ. Bác sĩ bảo chỉ cần Colton có thể xì hơi đã là một dấu hiệu tốt. Chúng tôi cố dắt nó đi lên đi xuống hành lang để thả lỏng, nhưng Colton chỉ có thể lê bước chậm chạp. Con người vì đau dường như không có gì có thể giúp thằng bé được. Ngày thứ tư sau cuộc phẫu thuật thứ hai, nó chỉ có thể nằm trên giường quặn đau vì táo bón. Chiều hôm đó, bác sĩ Oher đến mang thêm tin xấu. Ông nói: “Tôi xin lỗi, tôi biết anh chị đã phải chịu đựng nhiều, nhưng ở đây chúng tôi đã làm tất cả có thể cho Colton. Chúng tôi cho rằng có thể tốt hơn nếu nên chuyển bé đến một bệnh viện nhi, có thể là bệnh viện ở Omaha hay ở Denver”. Chúng tôi có thể cùng nhau thức trắng hết 10 đêm trong 15 ngày sau hơn hai tuần mệt nhoài bên cạnh Colton. Ngay khi chúng tôi gần như đã có thể quay trở lại bình thường, bước vào thang máy, cửa đóng lại và cả gia đình ngập trong trùm bong bóng chào đón trở về, thì tất cả mọi thứ lại sụp đổ quanh chúng tôi. Giờ đây con trai chúng tôi lại chìm trong cơn đau hoằng hoại không dứt, chúng tôi còn không thấy được lối ra. Ngay lúc chúng tôi nghĩ không còn gì có thể tệ hơn được thì điều đó xảy đến. Cơn bão tuyết bất thường trong mùa xuân đang di chuyển đến vùng Midwest. Trong vòng vài giờ, những lớp tuyết dày chất thành đống, chặn các cửa bệnh viện và lấp đến hết bánh xe trong bãi giữ xe. Cho dù chọn bệnh viện nhi ở Omaha cách đó 8 tiếng đồng hồ hay ở Denver cách đó 3 tiếng, không có cách nào chúng tôi có thể đến được một trong hai nơi bằng hàng không.

Đó là lúc Sonia bỏ cuộc: “Em không thể chịu đựng được nữa”, cô nói và òa khóc. Và lúc đó một nhóm trong nhà thờ chúng tôi quyết định đã đến lúc cầu nguyện thật thành khẩn. Các anh em trong nhà thờ bắt đầu gọi điện và ít lâu sau khoảng 80 người tham gia buổi cầu nguyện, một số người ở giáo đoàn của tôi và một số từ ở nhà thờ khác, và tất cả họ đã đến cùng nhau để cầu nguyện cho con trai tôi. Dyan gọi điện cho tôi báo lại mọi việc đang xảy ra. “Chúng tôi có thể cầu nguyện cụ thể điều gì?”, anh hỏi. Cảm thấy việc mình đang làm hơi kỳ cục một chút, tôi bảo với anh điều bác sĩ Oholeran cho là dấu hiệu tốt cho Colton. Thế là đêm đó, có thể là lần duy nhất trong lịch sử, cả 80 người tập trung lại và cầu nguyện cho một người xì hơi được. Dĩ nhiên, họ cũng cầu nguyện cho thời tiết thay đổi để chúng tôi có thể đến được Denver và cũng cầu nguyện cho Colton khỏi bệnh. Nhưng chỉ trong một tiếng đồng hồ, điều cầu nguyện đầu tiên đã được đáp lời ngay lập tức. Colton bắt đầu thấy đỡ hơn. Tối hôm đó thằng bé có thể đi tiểu được, cho đến sáng hôm sau nó đã ngồi dậy được, chơi trong phòng như thể những điều tồi tệ vừa rồi chưa bao giờ xảy ra. Nhìn Colton, Sonia và tôi không thể tin vào mắt mình. Ngoài việc rất ốm, Colton hoàn toàn và dứt khoát đã trở lại là chính nó. Trong vòng chưa tới 12 tiếng đồng hồ, chúng tôi đã xoay chuyển từ hoàn toàn tuyệt vọng thành hoàn toàn bình thường.

Khoảng 9:00 sáng, bác sĩ đến khám cho thằng bé. Khi ông nhìn thấy Colton đã ngồi dậy được, tươi cười và vui vẻ đang chơi với mấy nhân vật hành động của mình, bác sĩ là người ngạc nhiên nhất. Trong một lúc lâu ông thực ra chỉ đứng nhìn chăm chăm kinh ngạc. Ông khám cho Colton và lên lịch xét nghiệm một vòng nữa để thật sự chắc chắn rằng bên trong Colton đang hồi phục. Lần này Colton thật sự qua được hết, cho đến lượt chụp CT. Chúng tôi ở trong bệnh viện một ngày rưỡi nữa chỉ để chắc chắn rằng tình trạng hồi phục của Colton ổn định. Trong suốt thời gian đó, dường như chúng tôi được nhiều y tá ra vào thăm nom hơn bình thường. Từ tốn mỗi lần theo cặp họ đi vào phòng, phản ứng của họ lần nào cũng vậy, họ cứ đứng và nhìn chăm chăm vào con trai bé bỏng của chúng tôi.

Thiên đàng có tht

Sau khi xuất viện về nhà, chúng tôi đã ngủ cả một tuần. Đúng vậy, chúng tôi có nói quá nhưng chỉ một chút thôi. Sonia và tôi hoàn toàn kiệt sức, giống như thể chúng tôi vừa trải qua một cú đụng xe. Suốt gần 17 ngày, vết thương không thể thấy được từ bên ngoài, nhưng bên trong sự căng thẳng và lo lắng đến xé lòng gây thương tổn to lớn. Trong một buổi tối khoảng một tuần sau khi về nhà, Sonia và tôi đang đứng trong bếp bàn về chuyện tiền nong. Cô ấy đứng bên chiếc bàn xếp cạnh lò vi sóng, xếp lại đống thư từ khổng lồ tích lũy trong thời gian Colton nằm viện. Mỗi lần mở một phong thư, cô ghi lại một con số trên một tờ giấy đặt trên quầy bếp. Từ chỗ tôi đứng tựa người vào các ngăn kéo ở phía đối diện, tôi có thể thấy được một cột dài các con số đó. Cuối cùng cô đặt bút xuống quầy bếp. “Anh biết em phải trả bao nhiêu tiền cho các hóa đơn tuần này không?”. Là người giữ sổ sách của gia đình và chuyện kinh doanh, Sonia thường hỏi tôi câu hỏi đó. Cô làm giáo viên bán thời gian, nhờ vậy mà chúng tôi có thu nhập ổn định, nhưng đó là một khoảng tiền khá nhỏ. Đồng lương Mục sư của tôi cũng nhỏ, gộp lại từ những khoản tiền ủng hộ từ giáo đoàn nhỏ sù đạo. Bởi vậy một phần lớn tiền kiếm được là từ việc kinh doanh cửa Cara của chúng tôi và khoảng thu nhập đó tăng giảm theo mùa. Mỗi hai tuần cô cho tôi biết các số liệu, không chỉ là các hóa đơn sử dụng trong nhà mà là các khoản phải trả cho việc kinh doanh, giờ đây còn có thêm các hóa đơn viện phí bộn tiền. Tôi tính nhẩm sơ trong đầu và đoán chắc gần 23.000 đô la. “Đúng”, cô ấy thở dài trả lời, “Cũng đã có thể là cả triệu đô với tình trạng tôi không thể làm công việc gắn cửa vì bị gãy chân và rồi bị khối u. Chúng tôi đã xài hết sạch tiền để dành. Thế rồi khi tôi hồi phục hoàn toàn thì Colton lại bệnh khiến tôi không thể làm việc trong gần cả tháng nữa. Chuyện tôi có thể kiếm được 23.000 đô la khó như trúng số vậy. Và vì chúng tôi cũng không chơi vé số, chúng tôi cũng chẳng có cơ hội nào kiếm được số tiền đó”.

“Anh có giấy báo thu nào không? Có ai đến hàng anh có thể đến thu tiền được không?”, Sonia hỏi. Cô ấy hỏi cũng chỉ để hỏi chứ thực ra đã biết câu trả lời. Tôi lắc đầu. “Chúng ta có thể khoan trả một số khoản”, cô nói, gật đầu hướng về chồng bao thư. “Nhưng các khóa đơn ngày 10 đã hết hạn”. Đây là bức tranh sống động cho thấy thị trấn nhỏ bé như thế nào. Người dân ghi nợ hoặc mở trương mục tại những nơi như trạm xăng, tiệm tạp hóa và cửa hàng đồ gia dụng. Thế nên nếu cần đổ xăng hay mua một ổ bánh mì, chúng tôi chỉ cần tạt qua và ghi nợ, rồi vào ngày 10 hàng tháng Sonia sẽ dành 10 phút dạo quanh thị trấn để thanh toán các hóa đơn. Ngày 10 là điều tuyệt vời khi sống ở một thị trấn nhỏ, thế nhưng khi không thanh toán được bạn sẽ thấy ê chề hơn nhiều. Tôi thở dài. “Anh có thể đi giải thích tình hình, xin thêm thời gian”. Sonia cầm một sắp giấy dày hơn những sắp khác một chút. “Hóa đơn điều trị cũng đến rồi. Một trong số này đến 34.000 đô la. Bảo hiểm trả cho mình được bao nhiêu?”. “Khấu trừ còn 3200 đô. Thậm chí mình cũng không trả nổi khoảng đó ngay lúc này”, tôi nói. “Anh có còn muốn em đăng ký khoản tiền ủng hộ nhà thờ?”, Sonia hỏi. Nói về khoản tiền ủng hộ nhà thờ hàng tuần, chắc chắn rồi, tôi nói, “Chúa đã mang con trai mình trở lại, không có lý do gì mình không dâng lại gì cho người”.

Vừa ngay lúc đó Colton từ trong phòng khách xuất hiện ở góc phòng và làm chúng tôi kinh ngạc bằng lời tuyên bố mà đến ngày nay chúng tôi vẫn còn nghe. Thằng bé đứng ở cuối quầy bếp, tay chống nạnh: “Ba ơi, Chúa Giê-su đã dùng bác sĩ Oholeran để giúp chữa cho con”, Colton nói ngay cuối quầy bếp hai tay chống nạnh, “Con cần phải trả tiền cho ông ấy”. Rồi thằng bé quay đi và bước ra ngoài phòng và mất hút. Sonia và tôi nhìn nhau. “Chuyện gì vậy?”. Cả hai chúng tôi đều sửng sốt vì Colton đã xem vị bác sĩ như nguồn gốc của tất cả những lần chọc, cắt, đâm, chích và đau đớn, giờ đây chỉ sau một tuần xuất viện, dường như thằng bé đã thay đổi suy nghĩ. “Em nghĩ bây giờ con có vẻ thích bác sĩ Ohan rồi”.

Ngay cả nếu Colton có lòng tha thứ cho vị bác sĩ tốt lành, thì lời tuyên bố của thằng bé lúc đứng trong bếp cũng rất quái lạ. Có bao nhiêu trẻ chưa tròn bốn tuổi phân tích được các mối lo tài chính của gia đình và đòi phải thanh toán cho một chủ nợ, nhất là một người mà thằng bé chưa bao giờ thích hẳn hoi? Lại còn cách thằng bé nói nữa: “Ba ơi, Chúa Giê-su đã dùng bác sĩ Oholeran để chữa cho con”. Và những gì diễn ra sau đó còn quái lạ hơn. Với các hóa đơn đến hạn và phải trả ngay tổng cộng đến 23.000 đô, chúng tôi không biết mình sẽ phải làm gì. Sonia và tôi bàn chuyện mượn tiền ngân hàng, nhưng hóa ra chúng tôi không cần phải làm việc đó.

Đầu tiên cụ Ellen, tức là bà ngoại tôi sống ở Ulysses, bang Kansas gửi cho chúng tôi một ngân phiếu để trả tiền viện phí. Sau đó, trong vòng một tuần nhiều ngân phiếu khác được gửi đến qua đường bưu điện, các ngân phiếu trị giá 50, 100, 200 đô và tất cả kèm theo thiệp và thư ghi những dòng như: “Chúng tôi được biết các bạn gặp khó khăn và chúng tôi cầu nguyện cho các bạn”, hoặc “Chúa thôi thúc chúng tôi gửi cho anh chị, tôi hy vọng nó có thể giúp được anh chị”. Nhưng đến cuối tuần hộp thư của chúng tôi lại đầy, nhưng không phải bởi quà mà bởi các hóa đơn. Các thành viên giáo xứ, bạn bè thân thiết và thậm chí những người chỉ biết chúng tôi từ xa đã đáp lại những yêu cầu của chúng tôi mà không đợi chúng tôi hỏi xin. Các ngân phiếu cộng lại lên đến hàng ngàn đô la và chúng tôi kinh ngạc khi tính được rằng cộng với số tiền bà tôi gửi, tổng số tiền nhận được vừa bằng con số chúng tôi cần để thanh toán đợt hóa đơn đầu tiên, gần như đến từng đồng. Không lâu sau khi Colton trở thành nhân tố gây sức hút mạnh mẽ, thằng bé gặp một chút rắc rối. Không có gì nghiêm trọng, chỉ là một sự kiện tại nhà một người bạn khi thằng bé tranh giành mấy món đồ chơi. Tối đó tôi gọi nó xuống ngồi ở bàn bếp. Tôi ngồi trên chiếc ghế lưng đứng và thằng bé leo lên chiếc ghế bên cạnh tôi và quỳ trên đó. Nó chống khuỷu tay và nhìn tôi chăm chú bằng đôi mắt xanh biếc có chút gì đó hơi bẽn lẽn. Nếu bạn có một đứa con ở tuổi mẫu giáo, bạn biết là đôi khi rất khó có thể vượt qua được vẻ đáng yêu của chúng để nói chuyện nghiêm túc về kỷ luật, nhưng tôi đã biểu lộ được một vẻ mặt nghiêm túc. “Colton”, tôi bắt đầu nói, “Con có biết tại sao mình lại gặp rắc rối không?”. “Dạ có, vì con không biết chia sẻ”, Colton nói, đưa mắt nhìn xuống bàn. “Đúng rồi, con không được làm như vậy, Colton à, con phải đối xử với người khác tử tế hơn”. Colton đưa mắt nhìn tôi. “Dạ, con biết, ba. Chúa Giê-su dặn con phải ngoan”. Lời nói của Colton khiến tôi hơi bất ngờ, cái cách mà nó nói “Chúa Giê-su dặn”. Nhưng tôi gạt chuyện đó qua một bên, các giáo lý viên ngày chủ nhật hẳn đã dạy dỗ rất tốt, tôi nghĩ bụng thế. “Thế thì Chúa Giê-su nói đúng phải không nào?”, tôi nói và cuộc nói chuyện kết thúc. Tôi thậm chí không phải dạy Colton về chuyện không biết chia sẻ. Dẫu sao thì tôi không là gì so với Chúa Giê-su trong bối cảnh đó.

Một vài tuần sau tôi bắt đầu chuẩn bị chủ trì một đám tang tại nhà thờ. Người vừa qua đời không phải là một thành viên trong giáo đoàn chúng tôi, nhưng những người trong thị trấn không tham dự thánh lễ thường xuyên thường muốn tổ chức đám tang trong nhà thờ cho người thân yêu của họ. Đôi khi người quá cố là bạn hay người thân của một thành viên trong giáo xứ. Colton hẳn đã nghe Sonia và tôi bàn luận về buổi lễ sắp tới, vì một sáng nọ thằng bé bước vào phòng khách và giật giật đuôi áo tôi. “Ba ơi, đám tang là gì vậy?”. Tôi đã chủ trì nhiều tang lễ tại nhà thờ từ khi Colton sinh ra, nhưng ở tuổi này.

Ngay lập tức, thái độ của Colton bỗng thay đổi, gương mặt của nó trở nên rất nghiêm túc và nó nhìn chằm chằm vào mắt tôi. “Người đó có Chúa Giê-su ở trong lòng không?”. Con trai tôi đang hỏi có phải người quá cố là một người theo đạo Cơ Đốc không. Nhưng cảm xúc dữ dội của thằng bé khiến tôi bối rối. “Ba không rõ nữa, Colton à”, tôi trả lời, “Ba không biết ông ấy rõ lắm”. Gương mặt thể hiện một nỗi lo lắng ghê gớm. “Ông ấy phải có Chúa Giê-su trong lòng. Ông ấy phải biết Chúa Giê-su, nếu không ông ấy không thể lên thiên đàng!”. Sự sôi nổi của thằng bé làm tôi kinh ngạc. Thậm chí không biết đến người này.

Tôi cố hết sức trấn an nó: “Ba đã nói chuyện với người nhà của ông ấy và họ nói với ba rằng ông ấy tin Chúa”, tôi nói. Colton có vẻ không hoàn toàn được thuyết phục, nhưng gương mặt thằng bé thư giãn hơn một chút. “À, thế thì được”, cu cậu nói và đi mất. Lần thứ hai trong vài tuần, tôi đã nghĩ các giáo lý viên ngày chủ nhật quả là đang dạy dỗ rất tốt. Chủ nhật cuối tuần đó, Sonia cho K và Colton ăn mặc chỉnh chu và cả nhà đi đến nhà thờ để chuẩn bị cho tang lễ. Khi dừng xe lại, tôi thấy xe tang của nhà tang lễ đậu ở bên ngoài, bên trong tôi thấy chiếc quan tài bằng gỗ sồi bóng đặt ở một bên sảnh. Hai lối vào dẫn từ sảnh vào thánh đường, nơi những người trong gia đình tụ tập cho nghi thức đặt hoa trước khi chuyển đến nghĩa trang. Tôi đã nghe nói đến nghi thức đặt hoa, nhưng giờ thì tôi nghĩ đây thực sự là một ý hay. Cả gia đình quay quần lại trong lễ tang và người chỉ đạo tang lễ chỉ vào từng cây vòng hoa hay kệ hoa, giải thích do ai gửi đến và đọc to các thông điệp chia buồn kèm theo. Mục sư phải tham gia lễ đặt hoa. Tôi nhìn vào thánh đường và bắt gặp ánh mắt của người chỉ đạo tang lễ, ông gật đầu ra hiệu rằng họ đã sẵn sàng bắt đầu. Khi tôi quay ra gọi Colton và K lại, Colton chỉ vào chiếc quan tài, hỏi: “Cái đó là gì vậy ba?”. Tôi cố giải thích thật đơn giản: “Đó là cái quan tài, người chết nằm trong đó”. Đột nhiên gương mặt Colton lại hiện rõ mối lo ngại căng thẳng như trước. Thằng bé nắm tay vỗ mạnh vào đùi, rồi chỉ ngón tay vào chiếc quan tài và nói to gần như hét lên: “Người đó có Chúa Giê-su không?”. Sonia tròn xoe mắt và cả hai chúng tôi liếc nhìn cánh cửa vào thánh đường, lo sợ gia đình ở trong đó có thể nghe tiếng của thằng bé. “Ông ấy phải có! Ông ấy phải có!”, Colton tiếp tục, “Ông ấy không thể lên thiên đàng nếu không có Chúa Giê-su trong lòng”. Sonia nắm lấy vai Colton và cố bảo thằng bé im lặng, nhưng nó không im. Giờ đây như muốn khóc, Colton nắm vòng cánh tay cô ấy và hét to với tôi: “Ba ơi, ông ấy phải biết Chúa Giê-su!”. Sonia dắt thằng bé ra khỏi thánh đường và đưa cu cậu ra khỏi phía cổng trước của nhà thờ. Colton đi theo qua cánh cửa kính, tôi thấy Sonia khuỵu người trò chuyện với K và Colton ở bên ngoài, rồi K dắt tay đứa em trai vẫn còn đang cố vùng vằng và bắt đầu đi về nhà.

Tôi không biết phải nghĩ gì lúc này, nỗi lo lắng bất ngờ về việc một người xa lạ có được cứu rỗi, việc người đó có Chúa Giê-su ở trong lòng hay không, theo như cách Colton nói từ đâu mà đến với thằng bé. Tôi chỉ biết rằng Colton đang ở cái tuổi mà nếu có gì nảy ra trong đầu, thằng bé cứ nói ra hết, hệt như trong lần tôi dắt cu cậu đến một nhà hàng ở Meridian, có một người đàn ông để tóc rất dài và đi thẳng bước vào, thế là Colton hỏi to rằng đó là con trai hay con gái vậy. Chúng tôi tránh đưa thằng bé đến các lễ tang trong một thời gian, nếu không chắc người quá cố có phải là người Cơ Đốc giáo hay không. Chúng tôi không biết thằng bé sẽ nói gì và làm gì.

Mãi cho đến 4 tháng sau khi Colton trải qua phẫu thuật, trong chuyến đi thăm đứa cháu gái mới ra đời vào dịp lễ Độc lập ngày 4 tháng 7, Sonia và tôi cuối cùng mới có được manh mối về một điều gì đó phi thường xảy ra với con trai mình. Hẳn nhiên từ lúc ở bệnh viện đã nhiều lần Colton nói và làm những điều kỳ lạ. Colton đòi phải trả tiền cho bác sĩ vì Chúa Giê-su đã dùng bác sĩ để giúp chữa cho thằng bé, lời cậu nói rằng Chúa Giê-su dặn cậu phải ngoan, và biểu hiện căng thẳng có phần dữ dội ở tang lễ, nhưng những điều đó có vẻ cũng khá đáng yêu khi chỉ xảy đến như những tình tiết ngắn ngủi trong đời sống gia đình tất bậc, ngoại trừ việc diễn ra ở tang lễ có hơi kỳ quặc, nhưng không phải kỳ quặc theo kiểu siêu nhiên.

Cho tới lúc chúng tôi lái xe qua McCook trên đường đến South Dakota mọi việc mới dần sáng tỏ. Bạn nhớ là tôi đã giỡn với Colton một chút khi chúng tôi lái xe qua thị trấn này. “Colton, nếu quẹo ở đây mình có thể quay lại bệnh viện”, tôi nói, “Con có muốn quay lại bệnh viện không?”. Trong cuộc trò chuyện đó, Colton nói rằng nó bay ra khỏi xác, rằng cậu đã nói chuyện với các thiên thần và ngồi trong lòng Chúa Giê-su, và vì cậu có thể kể vợ chồng tôi đang làm gì ở một nơi khác trong bệnh viện, chúng tôi biết nó không nói dối. “Ba đang ở trong một căn phòng nhỏ cầu nguyện một mình, và mẹ ở trong một phòng khác cầu nguyện và nói chuyện điện thoại”. Cả Sonia cũng không thấy tôi trong căn phòng nhỏ đó. Cùng cơn thịnh nộ với Chúa bất chợt ngay trong chiếc xe trong chuyến đi nghỉ lễ, các sự kiện xảy ra trong vài tháng qua bỗng nhiên được giải đáp, giống như vài nước đi cuối cùng hoàn thành. Sonia và tôi nhận ra đây không phải là lần đầu tiên Colton cho chúng tôi biết điều kỳ diệu nào đó đã xảy đến với thằng bé, lần này là lần rõ ràng nhất.

Ngay khi đến South Dakota, chúng tôi lưu bu với cháu gái dễ thương, hỏi thăm tin tức gia đình và tham quan thác nên không có nhiều thời gian thảo luận về những tiết lộ kỳ lạ của Colton, nhưng vào những lúc yên ả trước khi đi ngủ, một dòng hình ảnh ùa về chiếm lấy tâm trí tôi, đặc biệt là giây phút kinh khủng đó khi tôi ở trong căn phòng nhỏ ở bệnh viện và nổi giận với Chúa trời. Tôi nghĩ mình đang ở một mình trút cơn thịnh nộ và nỗi thống khổ một mình trong khi vẫn mạnh mẽ trước Sonia, nhưng con trai tôi nói thằng bé đã thấy tôi. Kỳ nghỉ ngắn của chúng tôi trôi qua yên ả và chúng tôi trở về kịp thánh lễ ngày chủ nhật tuần sau đó. Sonia và bạn cô đến vùng Colorado Springs tham dự lễ hội, một hội nghị về ca đoàn nhà thờ. Tôi và các con ở nhà như mọi gia đình đầy thận trọng khác.

Khi sống ở vùng vành đai lốc xoáy, chúng tôi có một tầng hầm bên dưới ngôi nhà một tầng của mình. Tầng hầm của chúng tôi được xây dựng bán hoàn thiện, gồm một văn phòng nhỏ, một phòng tắm dẫn ra một không gian phòng giải trí rộng lớn đa chức năng. Một tối nọ, Colton đang ở trong tầng hầm với tôi. Tôi đang chuẩn bị cho bài thuyết giáo trong lúc thằng bé chơi trò chơi chiến tranh với các nhân vật hành động. Colton mới 3 tuổi 10 tháng khi trải qua phẫu thuật vào tháng năm rồi, chúng tôi vừa ăn mừng sinh nhật nó, vậy là giờ đây thằng bé đã tròn bốn tuổi. Giờ cu cậu đã lớn. Bữa tiệc ấy chúng tôi tổ chức thật đặc biệt vì trước đó suýt nữa chúng tôi đã mất nó. Tôi không nhớ chính xác ngày tôi và thằng bé cùng ở trong tầng hầm là ngày nào, nhưng tôi nhớ Sonia không có ở nhà tối hôm đó, chắc là con bé đã đến chơi với nhà bạn. Trong lúc Colton chơi quanh quẩn gần bên, tôi lại suy nghĩ về cuộc trò chuyện của chúng tôi ở McCook về Chúa Giê-su và các thiên thần. Tôi muốn hỏi thằng bé kỹ hơn nữa, muốn nó nói tiếp về điều đó. Ở cái tuổi này, các bé trai sẽ không nghĩ ra chính xác và kể được câu chuyện dài và chi tiết, nhưng các cu cậu sẽ trả lời các câu hỏi thẳng, thường là bằng những câu trả lời đi ngay vào vấn đề. Nếu Colton thật sự đã gặp gỡ đấng siêu nhiên, chắc chắn tôi không muốn hỏi thằng bé về những câu hỏi vòng vo. Suốt đời chúng tôi đã luôn dạy thằng bé về niềm tin. Nhưng nếu thằng bé thật sự nhìn thấy Chúa Giê-su và các thiên thần, tôi muốn là một học viên chứ không còn là giáo viên với nó nữa.

Ngồi ở chiếc bàn làm việc dã chiến, tôi nhìn về phía con trai mình khi thằng bé đang điều khiển Người Nhện lao thẳng xuống một nhân vật xấu xa trong Star Wars. “Colton này”, tôi nói, “Con còn nhớ khi đi xe con có kể về lúc con ngồi trong lòng Chúa Giê-su không?”. Vẫn đang quỳ gối, thằng bé ngước nhìn tôi. “Dạ có”. “Vậy có chuyện gì khác xảy ra nữa không?”. Thằng bé gật đầu, mắt sáng rỡ. “Ba có biết là Chúa Giê-su có một người anh họ không?”. “Chúa Giê-su kể cho con nghe anh họ của ngài đã rửa tội cho ngài”. “Ừ, con nói đúng”, tôi nói, “Kinh thánh có nói anh họ của Chúa Giê-su tên là Gioan”. Trong lòng tôi thầm trách bản thân đừng đưa thông tin gì cả, chỉ nên để thằng bé nói. “Con không nhớ tên ông ấy”, Colton nói vui vẻ, “Nhưng ông ấy rất tốt. Gioan Tẩy Giả rất tốt”.

Khi tôi đang suy ngẫm hàm ý trong lời thằng bé nói rằng nó đã gặp Gioan Tẩy Giả, Colton nhìn thấy một chú ngựa bằng nhựa trong đống đồ chơi của mình và cầm nó. “Ba ơi, ba có biết Chúa Giê-su có một con ngựa không?”. “Một con ngựa sao? Dạ, một con ngựa cầu vồng. Con phải nuôi nó mới được. Có nhiều màu lắm”. “Nhiều màu ư? Thằng bé đang nói về cái gì vậy? Ở đâu mà có nhiều màu vậy?”. Colton reo lên: “Ba ơi, nơi đó có hết các màu của cầu vồng!”. Điều này khiến đầu tôi quay cuồng. Bất chợt tôi nhận ra rằng cho tới lúc này tôi vẫn đang đùa với ý nghĩ có thể Colton đã được các đấng thiêng liêng viếng thăm. Có thể Chúa Giê-su và các thiên thần đã hiện ra với thằng bé ở bệnh viện. Tôi đã nhiều lần nghe đến các hiện tượng tương tự khi người ta cận kề cái chết như trường hợp của Colton. Giờ đây mọi thứ đã sáng tỏ với tôi rằng con trai tôi không chỉ nói rằng nó đã xuất hồn khỏi xác, mà nó nói nó đã rời khỏi bệnh viện. “Con đã lên thiên đàng ư?”, tôi hỏi. “Đúng rồi ba”, thằng bé nói như thể sự thật ấy hoàn toàn rõ ràng.

Tôi phải ngưng một lúc. Tôi đứng dậy và bước lên cầu thang, nhấc điện thoại gọi cho Sonia. Khi Sonia nhấc máy, tôi nghe tiếng đàn hát vang ở bên kia đầu dây. “Em có biết con trai mình vừa nói gì với anh không?”. “Gì vậy?”, cô nói to để át tiếng ồn. “Nó nói nó đã gặp Gioan Tẩy Giả…”. Tôi kể tóm gọn những điều còn lại cho cô và nghe thấy giọng cô đầy kinh ngạc ở bên kia đầu dây. Cô muốn hỏi chi tiết, nhưng trong phòng hội nghị quá ồn. Cuối cùng chúng tôi buộc phải tạm ngưng. “Gọi cho em tối nay sau bữa tối được không?”, Sonia nói, “Em muốn biết hết mọi chuyện”. Tôi gác máy và tựa lưng vào quầy bếp suy ngẫm chậm chậm. Tôi bắt đầu chìm vào dòng suy nghĩ về khả năng có thật của những chuyện Colton vừa kể. Có phải con trai chúng tôi đã chết và rồi quay trở lại? Các bác sĩ chưa bao giờ đưa ra dấu hiệu nào chứng minh điều đó. Nhưng rõ ràng có gì đó đã xảy ra với Colton. Thằng bé đã xác minh điều đó bằng cách kể cho chúng tôi nghe những điều đúng ra bé chẳng thể nào biết được. Mọi việc sáng tỏ với tôi rằng có thể chúng tôi đã được trao tặng một món quà và việc của chúng tôi bây giờ chính là mở nó ra chằm chằm, cẩn trọng và xem có gì trong đó.

Quay xuống hầm, Colton vẫn đang ngồi trên đầu gối chơi trò chơi trò đánh bom người ngoài hành tinh. Tôi ngồi xuống cạnh thằng bé. “Colton này, ba có thể hỏi con thêm nữa về Chúa Giê-su được chứ?”. Thằng bé gật đầu, mắt vẫn không rời khỏi cuộc tấn công hủy diệt của mình lên nhân vật X-Men. “Chúa Giê-su trông giống như thế nào vậy con?”, tôi hỏi. Ngay lập tức, Colton đặt đồ chơi xuống và nhìn tôi. “Chúa Giê-su có mấy vết màu”. “Cái gì? Những vết màu đó?”, tôi hỏi. “Chúa Giê-su có những vệt màu. Chúa có tóc màu nâu và có râu trên mặt”, thằng bé nói, đưa tay xoa xoa cằm. Tôi nghĩ chắc nó chưa biết gì đến râu quai nón. “Và mắt của ngài. Ôi, Ba ơi, mắt của ngài rất đẹp!”. Nói đến đây gương mặt Colton trầm ngâm và ánh mắt xa xăm như thể đang hồi tưởng về một ký ức hết sức êm dịu. “Còn quần áo của ngài thì sao?”. Colton quay trở lại trong phòng và cười nói với tôi: “Ngài mặc đồ màu tím”. Vừa nói, Colton vừa đặt tay lên vai trái, rồi đưa chéo theo thân mình xuống hông phải rồi lặp lại chuyển động đó. “Đồ của ngài màu trắng, nhưng từ chỗ này đến chỗ này thì màu tím”. Thêm một từ nữa thằng bé chưa biết: khăn choàng vai. “Chúa Giê-su là người duy nhất trên thiên đàng có mặc màu tím đó, ba biết không?”. Trong kinh thánh màu tím là màu của các vua. Một câu trong tin mừng của Mác-cô chợt hiện lên trong đầu tôi: “Y phục ngài trở nên rực rỡ trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. “Và ngài đội một thứ bằng vàng trên đầu”, Colton nói líu lo nhiệt tình, cậu đặt hai tay lên đầu thành một hình tròn giống như vương miện. “Phải không? Vâng, một chiếc vương miện, và có cái này, một thứ kim cương ở giữa, có màu hồng và ngài có những vết màu”. Ba ơi, đầu tôi quay cuồng. Tôi vẫn nghĩ mình đang dẫn dắt con mình từ từ trong cuộc trò chuyện này, nhưng thằng bé đã dắt dây cương và phi nước đại đi mất. Những hình ảnh từ Kinh Thánh quay vòng trong đầu tôi, Chúa Giê-su hiện linh trong sách Vua của các vua trong Sách Khải Huyền. Tôi kinh ngạc khi con trai mình miêu tả Chúa Giê-su trong diện mạo con người, rồi chợt kinh ngạc với sự kinh ngạc của bản thân vì niềm tin của chúng ta xoay quanh ý niệm rằng con người được tạo nên theo hình ảnh của Chúa trời và Chúa Giê-su giáng thế và lên nước trời cũng dưới hình hài con người. Tôi thuộc nằm lòng tất cả những câu chuyện này trong Kinh Thánh, vợ chồng tôi đã đọc cho Colton trong chừng năm ấy rất nhiều chuyện từ bộ sưu tập Sách Sáng Thế, các sách kể chuyện kinh thánh mà tôi có khi còn bé và tôi biết các bài giảng trong lớp Giáo lý ngày chủ nhật ở nhà thờ chúng tôi đã được đơn giản hóa như thế nào cho đối tượng mẫu giáo. “Chúa Giê-su yêu ta, ta phải đối xử tốt với người khác, Chúa tốt lành”. Nếu bạn có thể làm cho các bé mẫu giáo ghi nhớ chỉ một ý niệm trong ba đến bốn từ sau các buổi sáng chủ nhật đó đã là một thành tựu to lớn. Lúc này con tôi với giọng rất thành thực của một trẻ mẫu giáo kể cho tôi nghe những điều không chỉ đầy kinh ngạc mà còn đúng với Kinh Thánh đến từng chi tiết, đúng đến mức sắc màu cầu vồng mô tả trong Sách Khải Huyền. Hai điều đó mà được nhắc đến trong các tài liệu Giáo Lý lớp mẫu giáo. Và khi nói ra điều đó, Colton thường lúc nào cũng hỏi tôi, ông bố mục sư, “Ba có biết không?”, và tôi nghĩ “Ừ, nhưng làm sao con biết được?”. Tôi ngồi lặng im một hồi trong lúc Colton quay trở lại với chiến dịch đánh bom của mình, nhưng khởi đầu của một thói quen.

Trong vài năm sau đó, tôi ngồi đó và cố nghĩ xem sẽ hỏi thằng bé điều gì tiếp theo. Tôi suy ngẫm những gì nó đã nói: Gioan Tẩy Giả, Chúa Giê-su và trang phục của Người, cầu vồng, ngựa. Tôi hiểu hết, nhưng còn những vết màu? Colton có ý gì khi nó nói Chúa Giê-su có những vết màu? Đối với một trẻ nhỏ, những vết màu là gì? Tôi chợt hiểu ra.

“Colton, con nói Chúa Giê-su có vết màu, có phải con định nói các màu con hay dùng để tô màu không?”. Colton gật đầu. “Dạ, giống như vậy. Trên người Ngài có màu giống như khi con vẽ màu lên giấy phải không?”. “Dạ”. “Này con, màu của Chúa Giê-su là màu gì?”. “Màu đỏ, ba ơi. Chúa Giê-su có mấy chỗ màu đỏ trên người”.

Lúc này cổ họng tôi nghẹn lại, chực muốn khóc khi tôi chợt hiểu ra điều Colton muốn nói. Cẩn trọng, lặng lẽ, tôi hỏi thằng bé: “Colton, những vết màu của Chúa Giê-su nằm ở đâu?”. Không chần chừ, Colton đứng bật dậy. Cậu đưa tay phải ra, ngửa bàn tay và chỉ vào giữa lòng bàn tay, rồi cậu chỉ vào lòng bàn tay trái. Cuối cùng, Colton quỳ xuống chỉ vào mu bàn hai bàn chân. “Mấy vết màu trên người Chúa Giê-su nằm ở những chỗ này đó, ba”.

Tôi hít một hơi thật sâu. Thằng bé đã thấy, thằng bé hẳn đã thấy điều đó. Chúng ta biết Chúa Giê-su bị đóng đinh ở đâu khi Người chịu nhục hình, nhưng bạn sẽ không nói nhiều về những chi tiết khủng khiếp với trẻ nhỏ khi bé mới biết đi hay chưa đến tuổi đi học. Sự thật là tôi không biết con trai mình đã từng nhìn thấy Chúa Giê-su trên thập giá chưa. Các trẻ Thiên Chúa giáo lớn lên cùng hình ảnh đó, nhưng với trẻ theo đạo Tin Lành, đặc biệt là những trẻ nhỏ, chúng chỉ biết một khái niệm chung chung: Chúa Giê-su chết trên thập giá.

Tôi cũng ngạc nhiên khi Colton trả lời câu hỏi của tôi thật nhanh. Nó nói với sự chắc chắn của người tận mắt chứng kiến, không phải với sự thận trọng theo kiểu cố nhớ đáp lại đáp án học được trong lớp Giáo lý ngày Chúa Nhật hay từ sách vở. “Colton này, ba lên nhà lấy nước uống đây”, tôi nói, thật ra chỉ muốn dừng cuộc nói chuyện, dù cho thằng bé đã nói hết mọi chuyện hay chưa, bản thân tôi thấy đã đủ. Tôi đã có đủ thông tin để suy ngẫm. “Dạ”, Colton nói và cúi xuống chơi với các món đồ chơi của mình.

Trên nhà, trong bếp, tôi tựa vào bàn bếp uống từng ngụm nước, ngậm nghĩ làm sao con trai mình có thể biết được những điều này. Tôi biết thằng bé không bịa ra chuyện này. Tôi khá chắc quyết rằng cả Sonia và tôi đều chưa từng kể cho Colton biết Chúa Giê-su mặc gì, chứ nói chi đến trang phục Ngài mặc trên thiên đường. Có thể thằng bé biết được điều này từ những câu chuyện Kinh Thánh chúng tôi đã đọc cho các con nghe chăng? Colton biết về tôn giáo qua những câu chuyện này nhiều hơn là từ cả tháng học giáo lý ngày Chúa Nhật, nhưng một lần nữa những câu chuyện trong các sách truyện Thánh Kinh chúng tôi đọc cho Colton chủ yếu chỉ tập trung vào chuyện và mỗi truyện chỉ có vài trăm chữ, hoàn toàn không có nhiều chi tiết như là Chúa Giê-su mặc màu trắng dù trong Kinh Thánh có nói điều đó, và không có chi tiết nào mô tả thiên đường ra sao.

Tôi uống thêm một ngụm nước và suy ngẫm về chuyện người anh họ của Chúa và những vết màu. Chúng tôi không nói cho Colton biết chuyện đó. Nhưng thậm chí về những chi tiết ban đầu tôi không hiểu được như chuyện những vết màu, Colton đều rất chắc chắn. Và có một vấn đề khác về những vết màu khiến tôi suy nghĩ. Khi tôi hỏi Colton Chúa Giê-su trông như thế nào và điều đầu tiên nó nói đến không phải là chiếc khăn choàng vai màu tím, vương miện hay cả đôi mắt Chúa Giê-su mà Colton thật sự thích. Thằng bé đã nói ngay khi được hỏi: “Chúa Giê-su có những vết màu”.

Tôi đã từng nghe một câu đố về tâm linh rằng điều gì duy nhất ở thiên đàng vẫn giống như nơi hạ giới? Câu trả lời: những dấu thánh trên bàn tay và bàn chân của Chúa Giê-su có thể thật sự đúng là như thế.

Sonia từ Colorado Springs trở về tối thứ bảy và khi hai vợ chồng tôi ngồi bên nhau trong phòng khách cùng uống Pepsi và tôi kể cho cô nghe hết những gì Colton đã nói. “Chúng ta đã có sơ suất điều gì không nhỉ?”, tôi hỏi. “Em không biết”, cô trả lời, cứ như thể nó chỉ bật nói ra các thông tin mới một cách bất ngờ. “Anh muốn biết nhiều hơn, nhưng anh không biết phải hỏi con điều gì”. Chúng tôi đều là những người dạy học, Sonia là giáo viên, còn tôi thì với tư cách là một mục sư. Chúng tôi thống nhất là cách tốt nhất là tiếp tục hỏi những câu hỏi mở khi có dịp và không điền vào chỗ trống như cách tôi đã làm không cố ý khi gợi ý từ “vương miện” khi Colton đang mô tả một vật gì bằng vàng trên đầu Chúa Giê-su. Trong những năm tới chúng tôi sẽ tuân thủ theo nguyên tắc này thật thận trọng để cho Colton chỉ biết được từ áo choàng vai khi nó lớn thêm vài ngày.

Sau khi cuộc nói chuyện về những vết màu, tôi đang ngồi ở bàn bếp chuẩn bị bài giáo thuyết còn Colton đang chơi ở gần đó. Tôi ngước nhìn con trai mình đang đeo gươm nhựa và buộc một chiếc khăn tắm quanh cổ. Mọi siêu anh hùng đều cần có khăn choàng. Tôi muốn hỏi thằng bé thêm nữa về thiên đường và tôi đã nghĩ đi nghĩ lại nhiều về những câu hỏi trong đầu tôi chưa bao giờ nói chuyện với Colton về những việc này trước đây, thế nên tôi có chút lo lắng không biết bắt đầu như thế nào. Thực ra tôi chưa bao giờ nói chuyện với ai như vậy. Cố gắng bắt chuyện với thằng bé trước khi nó sa vào cuộc chiến giả tưởng, tôi ra hiệu gọi Colton đến ngồi bên mình. Nó chạy lóc cóc đến và trèo lên chiếc ghế đặt ở cuối bàn bếp. “Dạ?”. “Con còn nhớ lúc con tả cho ba nghe về Chúa Giê-su không? Về con ngựa đó?”. Thằng bé gật đầu, mắt xoe tròn thành thật. “Vậy là con đã lên thiên đàng?”. Nó lại gật đầu. Tôi nhận ra mình bắt đầu chấp nhận điều này đúng. Có lẽ Colton quả thật đã đến thiên đường.

Tôi có cảm tưởng như gia đình mình đã nhận được một món quà và vừa mới gỡ được lớp giấy bọc trên cùng, mới biết được hình dạng chung của nó. Giờ đây tôi muốn biết có gì trong chiếc hộp này. “Vậy con đã làm gì ở thiên đường?”, tôi thử hỏi. “Làm bài tập nhà”. Bài tập nhà ư? Câu trả lời tôi không ngờ tới. Tập hát với hiệp sướng thì có thể, nhưng còn bài tập nhà ư? “Ý con là gì?”. Mỉm cười, “Chúa Giê-su là thầy giáo của con, giống như ở trường à?”. Colton gật đầu. “Chúa Giê-su cho con làm bài tập và đó là trò con thích nhất ở thiên đường”.

“Ba ơi, ở đó có rất nhiều trẻ em”. Câu nói đó bắt đầu một đoạn mà tôi ước gì lúc đó mình đã ghi lại. Trong suốt cuộc trò chuyện này và trong năm đó, Colton có thể kể tên rất nhiều trẻ em có mặt trên thiên đường với mình, mặc dù đến giờ thằng bé không còn nhớ tên của chúng nữa. Và cả vợ chồng tôi cũng thế. Đây là lần đầu tiên Colton nhắc đến những người khác trên thiên đường, ý tôi là những nhân vật trong Kinh Thánh như Gioan Tẩy Giả, nhưng tôi phải thú nhận là tôi đã nghĩ về ngài như một nhân vật chứ không phải một người phàm như tôi và bạn. Chuyện này có vẻ ngu ngốc vì người Cơ Đốc hữu luôn nói rằng chúng ta sẽ lên thiên đường sau khi chết, thế thì tại sao tôi không nghĩ ra được là Colton có thể gặp những người bình thường?

Nhưng tôi chỉ nghĩ ra được mỗi câu hỏi, “Vậy những em bé đó trông như thế nào? Người ta trông ra sao ở trên thiên đường? Người nào cũng có cánh cả?”. Colton nói: “Cánh hả? Con có cánh không?”. Tôi hỏi. “Dạ có, nhưng cánh của con không lớn lắm”. Thằng bé tỏ vẻ hơi buồn khi nói về điều này. “Được rồi, vậy con bước đi hay con bay?”. “Con bay, à ngoại trừ Chúa Giê-su. Ngài là người duy nhất trên thiên đường không có cánh. Chúa Giê-su chỉ đi lên đi xuống như một chiếc thang máy”.

Trong đầu tôi chợt nghĩ đến sách Công Vụ Tông Đồ, cảnh Chúa lên trời. Khi Chúa Giê-su bảo các tông đồ rằng họ sẽ là nhân chứng của Người, rằng họ sẽ nói với tất cả mọi người trên thế giới về Người, theo Kinh Thánh, khi vừa dứt lời Chúa Giê-su được cất lên ngay trước mắt của các ông, và có đám mây quyển lấy Người, khiến các ông không còn nhìn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì kìa hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói, “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Chúa Giê-su được cất lên và sẽ ngự xuống, không cần cánh. Đối với một đứa trẻ, điều đó trông giống như một chiếc thang máy.

Colton cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi: “Ba ơi, trên thiên đường người nào cũng trông giống như thiên thần”. “Ý con là gì?”. “Mọi người đều có một vòng sáng ở trên đầu”. Tôi nặn óc suy nghĩ về những gì mình biết về các thiên thần và ánh sáng trong Kinh Thánh. Khi các thiên thần xuất hiện, nhiều khi trong ánh sáng chói lòa gần như làm lòa cả mắt. Khi bà Maria Ma-đơ-len và những phụ nữ khác đến trước mộ Chúa Giê-su vào ngày thứ ba sau khi Người được an táng, phúc âm nói rằng một thiên thần đã hiện ra với họ, ngồi trên tảng đá cửa mộ một cách nào đó đã được lăn khỏi đó, diện mạo người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết. Tôi nhớ rằng sách Công Vụ Tông Đồ có nói về tông đồ Stê-pha-nô khi ông bị buộc tội dị giáo trước tòa án Do Thái, họ thấy mặt ông trông giống như mặt một thiên sứ. Không lâu sau đó, Stê-pha-nô bị ném đá đến chết. Tông đồ Gioan trong Sách Khải Huyền viết rằng ông nhìn thấy một thiên thần dũng mãnh từ trời xuống, có mây bao phủ, có hào quang trên đầu và mặt thiên thần chiếu sáng tựa mặt trời.

Tôi không nhớ được cụ thể các thiên thần có ánh sáng trên đầu hoặc hào quang như một số người vẫn gọi, nhưng tôi biết rằng những gì Colton biết về thiên thần trong sách truyện và Thánh Kinh không có chi tiết ánh sáng trên đầu của các thiên thần và thằng bé thậm chí còn chưa biết đến từ “ánh hào quang”. Tôi không biết nó đã từng nhìn thấy hình ảnh đó chưa. Vì những câu chuyện Kinh Thánh kể hàng đêm và các bài giảng trong lớp Giáo lý sáng chủ nhật dựa rất sát vào Kinh Thánh, dù vậy những gì thằng bé nói vẫn làm tôi ngạc nhiên vì một lý do khác.

Một người bạn của chúng tôi, vợ của một mục sư ở Colorado đã kể cho tôi nghe những gì con gái cô, Hannah, nói khi cô bé lên ba. Sau thánh lễ buổi sáng chủ nhật, Hannah kéo váy mẹ và hỏi, “Mẹ ơi, vì sao một số người trong nhà thờ có ánh sáng trên đầu còn một số khác thì không?”. Lúc đó tôi nhớ mình đã nghĩ hai điều: đầu tiên, tôi sẽ quỳ xuống và hỏi Hannah, “Chú có ánh sáng ở trên đầu không?”, mong cháu sẽ nói có. Tôi cũng tự hỏi Hannah lúc ấy đã nhìn thấy những gì? Và phải chăng con bé nhìn thấy là vì giống như con trai tôi, nó có một niềm tin trẻ thơ. Khi các tông đồ hỏi Chúa Giê-su ai là người lớn nhất trong nước trời, Chúa Giê-su liền gọi một em nhỏ từ đám đông đặt vào giữa họ. Thầy bảo thật anh em, Chúa Giê-su nói, nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ thơ thì sẽ chẳng vào nước trời vậy ai tự hạ coi mình như em nhỏ này. Địa vị khiêm nhường của trẻ nhỏ là gì? Không phải là thiếu kiến thức, mà là không thủ đoạn, không tính toán. Điều đó khoảng thời gian quý giá ngắn ngủi trước khi chúng ta tích tụ đủ kiêu hãnh hoặc ý niệm để quan tâm đến những gì người khác nghĩ cũng sự thành thật vô tư cho phép một trẻ nhỏ ba tuổi vui vẻ nghịch tô tóe trong vũng nước hay cười ngã nhào trên thảm cỏ, C cúng con hoặc nói rõ to rằng cứ cứt mũi dính trên mũi bạn.

Đó là những gì bạn cần để lên thiên đường điều này trái ngược với sự ngu muội, đây chính là sự trung thực đầy trí tuệ, sẵn sàng chấp nhận thực tế và gọi tên sự vật với đúng bản chất của nó, thậm chí khi điều đó có khó khăn đi nữa. Tất cả những điều trên lóe lên trong ngay đầu tôi, nhưng tôi vẫn giữ vẻ điềm tĩnh.

“Ánh sáng hả?”, Tôi chỉ nói thế. “Dạ. Và họ có màu vàng từ đây tới đây”, thằng bé nói, lại làm hành động tát mô tả chiếc khăn choàng vai từ vai trái sang hông phải “và màu trắng từ đây đến đây”. Nó đặt hai tay lên vai rồi cúi người về phía trước và chạm vào mũi bàn chân.

Tôi nghĩ đến một người có vẻ như là một ngôn sứ Daniel ngày 24 tháng giêng đang ở ven sông Cả tức sông Ti-gơ-rít, “Tôi ngước mắt nhìn lên thì này, trước mặt tôi một người mặc áo vải gai lương, thắt đai vàng, thân mình giống kim lục thạch, dung mạo ví như ánh chớp, đôi mắt tượng ngọn đuốc hồng, cánh tay và đôi chân trông như đồng đánh bóng”.

Colton lại làm động tác chỉ chiếc khăn choàng vai lần nữa và nói: “Những người trên thiên đường mặc nhiều màu sắc ở đó hơn các thiên thần”. Lúc này, tôi cảm nhận lượng thông tin mới tiếp nhận đã gần đạt ngưỡng tối đa nhưng tôi vẫn còn muốn biết thêm một điều nữa, nếu Colton quả thật đã đến thiên đường là thật đã nhìn thấy những điều này: Chúa Giêsu, ngựa, các thiên thần, những trẻ nhỏ khác và ở trên đó đủ lâu để làm bài tập nhà thì thằng bé đã xuất hồn ra khỏi xác trong bao lâu như nó đã nói.

Tôi nhìn thằng bé quỳ trên chiếc ghế trong nhà bếp, chiếc khăn tắm vẫn buộc trên cổ. “Colton này, con đã nói ở trên đường và làm hết những việc vừa rồi, rất nhiều việc. Vậy con đã đi trong bao lâu?”. Đứa con trai bé nhỏ nhìn thẳng vào mắt tôi và không hề ngần ngại, Colton nói: “Ba phút”. Vậy cậu nhảy xuống ghế rồi chạy ra ngoài chơi.

Ba phút ư? Trong khi Colton bắt đầu dựng cảnh cho trận đánh hoành tráng bằng kiếm nhựa với một kẻ xấu vô hình, tôi vẫn còn kinh ngạc trước câu trả lời của thằng bé. Colton xác nhận những trải nghiệm của mình bằng cách cho tôi biết những điều mà nó không thể nào biết được nếu không trải qua, nhưng giờ đây tôi phải đóng khung câu trả lời của nó “3 phút” khỏi những điều còn lại. Tôi nhìn xuống quyển kinh thánh của mình đang mở đặt trên bàn bếp và suy đi nghĩ lại trong đầu mình những khả năng đã xảy ra. “3 phút”, Colton không thể nào nhìn và thấy mọi sự nó mô tả cho đến giờ chỉ trong 3 phút.

Dĩ nhiên thằng bé chưa đủ lớn để nhận thức rõ về thời gian nên có lẽ cảm giác về ba phút của Colton không giống như của người lớn. Như phần lớn của các bậc cha mẹ, tôi khá chắc chắn rằng Sonia và tôi không thể tránh được chuyện “hứ, sẽ gác điện thoại” chẳng hạn hoặc ngưng nói chuyện với người nhà hàng xóm ở ngoài sân hoặc hoàn tất công việc ở văn phòng trong 5 phút nữa nhưng rồi mãi 20 phút sau mới kết thúc được. Cũng có thể là thời gian trên thiên đường vượt ra ngoài hiểu biết. Kinh Thánh có nói rằng với Chúa Trời một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Một số diễn giải rằng đây là phép quy đổi thuần túy theo nghĩ đen như là hai ngày tương ứng với 2000 năm. Tôi vẫn luôn nghĩ nó có nghĩa là Chúa hoạt động ở ngoài tầm hiểu biết của chúng ta về thời gian, thời gian trên trái đất được gắn kết với một chiếc đồng hồ vũ trụ bị chi phối bởi hệ mặt trời, nhưng Kinh Thánh nói không có mặt trời trên thiên đường vì Chúa là ánh sáng nơi đó có thể cũng không có thời gian trên thiên đường ít nhất thì cũng không phải thời gian như chúng ta biết. Mặt khác, câu trả lời “ba phút” của Colton là một câu trả lời thẳng, một sự thật giống như khi thằng bé nói với tôi “Nói dùng bữa sáng với ngủ CC”, theo như quan niệm thời gian của chúng ta. Thằng bé có thể đúng. Vì khi xuất hồn khỏi xác rồi quay trở lại, nó không thể đi lâu được, đặc biệt là chúng tôi chưa hề nhận được báo cáo nào cho biết Colton Đã Chết lâm sàn. Thật ra, báo cáo hậu phẫu nêu rõ rằng cho dù tiên lượng của Colton là nguy kịch, ca mổ được thực hiện tốt đẹp.

Báo cáo hậu phẫu ngày mổ ngày 3 tháng 5 năm 2003:

  • Chẩn đoán: Tìm phẫu viêm ruột thừa cấp tính.
  • Chẩn đoán hậu phẫu: Thủng ruột thừa và áp xe.
  • Phẫu thuật: Cắt ruột thừa và dẫn lưu áp xe.

Bác sĩ phẫu thuật Timothy O’Han mô tả ca mổ: Bệnh nhân được đặt nằm ngửa trên bàn mổ, được gây mê toàn phần, phần bụng được chuẩn bị và che màng vô trùng. Rạch một đường ngang ở góc phần tư bên dưới. Và qua các lớp khoan trong bụng bệnh nhân bị thủng ruột thừa và áp xe. Ruột thừa được kéo lên vào vùng mố.

Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu tôi, “Colton không hề chết lúc nào” là sao? Thằng bé có Lên thiên đường mà chưa hề chết?

Tôi suy ngẫm về điều này trong nhiều ngày. Chỉ mới khoảng một tuần qua từ lần đầu tiên Colton kể cho chúng tôi nghe về các thiên thần, thế nên tôi không muốn gặng hỏi quá nhiều về chủ đề thiên đường, nhưng cuối cùng tôi không chịu nổi nữa và chạy kiếm khắp nhà cho đến khi thấy thằng bé đang quỳ gối xây tháp Lego trong phòng ngủ, nơi vợ chồng tôi cải tạo thành một phòng trò chơi. Tôi tựa người vào khung và thu hút sự chú ý của thằng bé.

“Colton này, ba không hiểu”, tôi bắt đầu. Thằng bé ngước nhìn tôi và tôi lần đầu nhận ra khuôn mặt nó đã tròn lại. Đôi má bầu bĩnh và hồng hào trở lại sau khi cơn bạo bệnh đã hút cạn khiến chúng hóp lại và vàng vọt.

“Dạ?”.

“Con nói con đã lên thiên đường, người ta phải chết mới lên thiên đường được”. Colton vẫn nhìn tôi chằm chằm, không nao núng.

“À thì con chết rồi, nhưng chỉ trong một chút thôi”.

Tim tôi như thắt lại. Nếu bạn chưa từng nghe đứa con tuổi mẫu giáo nói rằng nó đã chết, tôi cũng không khuyến khích việc đó, nhưng Colton chưa hề chết. Tôi biết hồi sơ bệnh án ghi gì, Colton chưa bao giờ ngưng thở, tim thằng bé chưa bao giờ ngừng đập.

Colton trở lại với đồ chơi của mình trong lúc tôi đứng ngay lối vào cửa và nghiền ngẫm mẫu thông tin mới thú vị này. Rồi tôi nhớ ra, ở một vài chỗ Kinh Thánh có nói về những người nhìn thấy thiên đường mà không phải chết. Tông đồ truyền giáo Phao-lô viết thư cho tín hữu Cô-rinh-tô về một tín đồ Cô-rinh-tô: “Ngài biết đã được cất lên thiên đường, có ở trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa biết. Tôi biết rằng người đó đã được cất nhắc lên tận thiên đường. Người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại”. Tông đồ Gioan là người mô tả thiên đường thật chi tiết trong Sách Khải Huyền. Tông đồ Gioan đã bị lưu đầy đến đảo Pát-mô nơi một thiên thần hiện đến nói với ngài và ra lệnh cho ngài viết một chuỗi các thị kiến cho các nhà thờ. Gioan viết: “Sau đó tôi được một thị kiến, kìa một cái cửa mở ra ở trên trời mà tiếng mà thoạt tôi nghe nói với tôi như thể tiếng kèn bảo tôi rằng, ‘Lên đây, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy những điều phải xảy ra sau đó’. Lập tức tôi xuất thần và kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não, chung quanh Ngài có cầu vồng trông giống như bích ngọc”.

Cầu vồng? Gần đây tôi nghe về nó ở đâu nhỉ?

Khi đang đứng suy ngẫm về những điều trong Kinh Thánh về những trải nghiệm thiên đường mà không qua cái chết, tôi nhận ra rằng Colton khi bảo rằng mình “chỉ chết trong một chốc thôi” chỉ muốn làm cho những khẳng định của người cha mục sư khớp với trải nghiệm mà nó biết là sự thật, đại loại như khi ta bước ra ngoài trời thấy đường ướt thì kết luận rằng “À chắc là trời mới mưa đây”. Tức là tôi cho rằng người ta phải chết thì mới lên thiên đường được và Colton, tôi tin tưởng, mới kết luận rằng “À chắc là con đã chết lúc đó rồi vì con đã đến thiên đường”.

Bất chợt Colton nhìn lên, “Ba ơi, ba còn nhớ con la to gọi ba trong bệnh viện lúc con mới tỉnh dậy không?”.

Làm sao tôi quên được? Đó là âm thanh tuyệt vời nhất mà tôi từng nghe.

“Ba nhớ chứ?”, tôi đáp.

“À con la lên như vậy là vì Chúa Giê-su đến với con, Người nói con phải trở về vì Người nhậm lời cầu nguyện của ba. Thế là con la lớn gọi ba”.

Đầu gối tôi bỗng như rụng rời. Tôi chợt nhớ về lúc cầu nguyện một mình, giận dữ với Chúa Trời và lời cầu nguyện của tôi trong phòng đợi, lặng lẽ và tuyệt vọng. Tôi nhớ lại mình đã sợ hãi đến mức nào, đau đớn không biết Colton có qua nổi ca phẫu thuật không, không biết thằng bé có sống đến lúc tôi còn có thể nhìn thấy gương mặt thân thương của nó. Đó là 90 phút dài nhất và đen tối nhất trong cuộc đời tôi.

Và Chúa Giê-su đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi, chỉ của mình tôi, sau khi tôi đã trách móc Chúa, lên án ngài, chất vấn sự minh triết và lòng trung tín của ngài. Vì sao Chúa vẫn đáp lại một lời nguyện cầu như thế? Và làm sao tôi xứng đáng với lòng thương xót của Người?

Kính thưa quý vị và anh chị em, đó là một vài chương trong sách Thiên đường có thật. Nếu quý vị và anh chị em quan tâm thì quý vị và anh chị em có thể lên trên mạng tìm đọc mua cuốn sách này. Hoặc có thể download file PDF đọc trên máy tính hoặc trên điện thoại để mà biết thêm về câu chuyện Thiên đàng có thật này.


CGVST.COM st

Caritas Việt Nam

Caritas Việt Nam tìm kiếm, phục vụ và bảo vệ quyền con người, đặc biệt là những người nghèo về vật chất lẫn tinh thần, người dễ bị tổn thương, bị bỏ rơi, hoặc bị gạt ra bên lề xã hội, người đồng bào dân tộc thiểu số.

Tin mới cập nhật

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *