Công Giáo Và Sự Thật | 04/01/2025 |
Hầu hết các sách Cựu Ước (gồm 46 cuốn) được viết bằng tiếng Do Thái (vốn không có nguyên âm vào thời đó); một vài cuốn được viết bằng tiếng Hy Lạp trong thời lưu đày và phiêu bạt tại Babylon (587-100 TCN), tức là thời kỳ lịch sử của người Do Thái trong kỷ nguyên tiền Kitô giáo, khi đó, ba phần tư người Do Thái buộc phải sống tha hương nơi các nước ngoại bang. Trải qua thời kỳ đó, rất nhiều con cháu của họ đã nói và hiểu tiếng Hy Lạp hơn tiếng Do Thái, vì Alexandre Đại Đế, vị vua của Macedonia, đã biến ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp trở thành một sức mạnh thống trị cho tới khi người Rôma xuất hiện.
Tân Ước (gồm 27 cuốn) được viết bằng tiếng Hy Lạp. Vào thế kỷ thứ IV, Hoàng đế Rôma là Constantine đã công nhận Kitô giáo; và Kitô giáo chính thức trở thành quốc giáo vào năm 391. Đức Giáo Hoàng Đamasus đã giao cho Thánh Giêrônimô dịch Cựu Ước và Tân Ước từ ngôn ngữ gốc là tiếng Do Thái và Hy Lạp sang ngôn ngữ phổ thông lúc bấy giờ là tiếng Latin (gọi là bản Vulgata).
Không hề có bất kỳ một người nào hay một nhóm nào đã chủ định ngồi xuống để viết trọn bộ Kinh Thánh như chúng ta đang có hiện nay. Mỗi cuốn Kinh Thánh được viết bởi một con người cụ thể do Thần Khí Thiên Chúa linh hứng. Do đó, Kinh Thánh thường được gọi là: “Lời Chúa do con người ghi lại với sự linh hứng của Thiên Chúa.” Thiên Chúa là tác giả tối cao, nhưng Ngài chọn những con người mà chúng ta gọi là “các tác giả thánh” (vì các ngài viết Kinh Thánh) để ghi lại những lời được linh hứng ra giấy (hay chính xác hơn là ra giấy cói- [giấy papyrus]).
Từng tác giả nhân loại đã viết các cuốn sách của Kinh Thánh như thể chúng là những bản văn tách biệt. Không hề có ai trong số họ có tầm nhìn hay suy nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ kết hợp toàn bộ các sách thành một quyển như chúng ta hiện có.
Tuy vậy, trước khi những bản văn được viết ra, thì đã có một giai đoạn truyền khẩu. Điều này có nghĩa là, trong nhiều thế kỷ, từ Abraham cho tới Môsê (khoảng 600 năm), cách duy nhất mà người Do Thái nhận biết về sự sáng tạo thế giới và khởi đầu của nhân loại chính là nhờ vào việc truyền khẩu. Cha mẹ kể lại cho con cái, và đến lượt mình, con cái tiếp tục kể lại cho những người con của họ và cứ tiếp diễn như vậy. Về cơ bản, mọi người đều là dân du mục, nay đây mai đó để chăn nuôi, không có một quốc gia riêng biệt, nên thực sự chẳng có bất kỳ điều gì đã được ghi chép lại.
Truyền thống cho rằng Môsê là người đầu tiên đã ghi lại nội dung truyền khẩu của Do Thái giáo. Bốn mươi năm lưu lạc trong sa mạc của dân Do Thái đã cho Môsê có nhiều thời gian, và vì ông đã từng là một hoàng tử của Ai Cập, được học tập trong cung điện Pharaô, nên chỉ mình ông mới có thể đọc và viết, trong khi phần dân còn lại đều là những người nô lệ nghèo khổ cho người Ai Cập.
Rất nhiều học giả nghiên cứu Kinh Thánh tin rằng, vào một lúc nào đó trong thế kỷ thứ 13 TCN, Môsê đã chấp bút cho năm cuốn đầu tiên của Kinh Thánh Do Thái (những cuốn mà Kinh Thánh của người Kitô hữu xếp vào phần Cựu Ước) là Sáng thế, Xuất hành, Lêvi, Dân số, Đệ nhị luật. Được gọi là Torah(luật) theo tiếng Do Thái, hay là Pentateuch (Ngũ thư) theo tiếng Hy Lạp, năm cuốn sách này trình bày về nguồn gốc của thế giới và các tổ phụ (Abraham, Isaac, Giacóp, Giuse) của dân tộc Israel. Hiện nay, một số học giả Kinh Thánh cho rằng có bốn nhóm khác nhau đã viết kinh Torah chứ không phải một mình Môsê. Họ cho rằng các nguồn Yahwist, Elohimist, Deuteronomist, Priestly (JEDP) đã thực sự ghi lại một số phần trong năm cuốn đầu của Kinh Thánh; sau đó một vài người đã hiệu đính thành một tổng thể. Mỗi nguồn xuất phát từ một nhóm học giả Do Thái khác nhau ở những thời điểm khác nhau. Nguồn Yahwist lấy tên từ cụm từ Yahweh (tên cực thánh của Thiên Chúa) vốn được sử dụng trong những thủ bản của nguồn này. Nguồn Elohimist sử dụng từ Elohim (một từ chung dành cho Thiên Chúa) thay cho tên cực thánh. Nguồn Deuteronomist được xem là nguồn đã ghi lại phần lớn sách Đệ Nhị Luật. Nguồn Priestly ghi lại phần lớn sách Lêvi, sách liên quan tới việc thực hành lễ nghi của bậc tư tế. Giả định về các nguồn tài liệu này không được tất cả các nhà nghiên cứu Kinh Thánh đồng tình. Phần lớn các học giả tin rằng Môsê đã viết, hay ít nhất là hiệu đính, một số bản văn, nếu không phải là tất cả, và đã kết hợp thành năm cuốn sách như ngày nay.
Kinh Torah (Luật) được viết vào khoảng năm 1250 TCN, nhưng Ne’vi-im (sách các Ngôn sứ) được viết khoảng năm 1200 – 500 TCN; và Ke’tuvim (các sách Giáo huấn) được viết khoảng năm 500-100 TCN). Ba mươi chín cuốn sách Cựu Ước này được viết bằng tiếng Do Thái, trong khi bảy cuốn sau [có dấu sao] được viết bằng tiếng Hy Lạp. Sau đây là cách phân chia ba phần của Cựu Ước: